Chợ Búng xưa và vùng đất An Thạnh ngày nay

“Bạn ghé chợ Búng, Bình An. Thăm vườn cây trái, ghé ăn bánh bèo”

Địa danh Búng có cách đây gần ba thế kỷ, đất Bình Dương còn khá hoang sơ, chỉ có người Mạ, Stiêng, Châu Ro sinh sống và khai phá vùng đất này. Thời kỳ đầu, những cư dân bản địa này sinh sống ven sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Về sau do quá trình di dân của người Việt nên họ lui về phía thượng nguồn hai con sông để sinh sống. trong quá trình di cư, các lưu dân người Việt dùng ghe, thuyền di chuyển theo đường biển, tìm các con sông lớn làm vùng đất định cư. Trong quá trình di chuyển, họ nhận thấy một số nơi dọc sông Sài Gòn có điều kiện thuận lợi nên họ đã tiến hành khai hoang và định cư lâu dài. Từ đó, nhiều lượt di cư lưu dân người Việt tìm đến khẩn hoang, sản xuất lập nghiệp và hình thành những điểm tụ cư đầu tiên trên đất Bình Dương.

Đến năm 1808, triều đình nhà Nguyễn xét: “đất rộng hẹp, dân nhiều ít, cứ theo địa lý liền lạc nhau mà chia đều, lại đặt thêm tổng, đều lập giới hạn”, nâng tổng Bình An lên huyện Bình An thuộc phủ Phước Long, dinh Trấn Biên. Huyện lỵ Bình An đóng tại chợ Búng. Khu chợ Búng có 2 vùng: vùng Nam có nhiều kênh rạch, vùng Bắc là gò có rừng chồi lúp xúp thích hợp với trồng cây ăn trái, cây công nghiệp ngắn ngày nên đã sớm thu hút lưu dân người Việt đến đây sinh cơ lập nghiệp. nơi này sớm có tốc độ và quy mô khai phá đất đai nhanh nhất huyện Bình An (huyện Bình An khai phá 543 mẫu 09 sào, 02 thước, 03 tấc; so với toàn phủ Phước Long 686 mẫu, 02 sào, 09 thước, 07 tấc; bằng 79,26% của phủ hồi đó).

Ngoài sức lao động khai hoang, lập làng, lưu dân còn mang nhiều ngành nghề thủ công truyền thống, trong đó có nghề chế biến thực phẩm: làm bánh, làm bún,… đến với vùng đất mới. Theo học giả Thanh Nghị (Việt Nam Tân Từ điển Sài Gòn xuất bản năm 1996) Bún là một trong những đặc sản của lưu dân gốc Thuận Quảng – Bình Định xưa, nổi tiếng khắp Nam kỳ lục tỉnh, còn theo học giả người Pháp viết về văn hóa ẩm thực trên đất Thủ Dầu Một – Bình Dương phổ biến có bún chả, bún riêu, bún nhang.

“Bạn ghé chợ Búng, Bình An

Thăm vườn cây trái, ghé ăn bánh bèo”

Ngày nay, bánh bèo là món ăn đặc sản, cách chợ Búng 100 mét về hướng Bắc trên đường Cách Mạng Tháng 8, có 2 quán bánh bèo mang tên Mỹ Liên. Bánh bèo bì Mỹ Liên là món ăn đặc sản mang đậm hương vị quê hương của vùng đất Bình Dương tồn tại hơn trăm năm nay. Cuối năm 2012, món bánh bèo Mỹ Liên đã được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công nhận là 1 trong 50 món ăn nổi tiếng của Việt Nam, thương hiệu của nó cũng từ đó mà vươn xa và được nhiều người biết đến hơn.

Với tư duy cụ thể là nơi nổi tiếng về làm bún, vùng đất này đã định danh là Búng, khi xây dựng chợ lấy tên gọi là chợ Búng.

Nhưng do phát âm theo tiếng địa phương từ Bún thành Búng. Cũng theo cách lý giải khác về địa danh Búng là trước khi đó sông Sài Gòn đổi dòng đã xoay thành một vịnh sâu nước từ vịnh cuộn lại và búng trào ra. Khu chợ được xây cất trên nền đất trước khi là đầm lầy, nên có tên gọi là Búng.

Chợ Búng ít phát triển giao thông thuỷ bộ như chợ Lái Thiêu, nhưng là nơi phát triển sớm nhất so với các chợ ở trong huyện Bình An. Lúc này, chợ Búng là điểm qui tụ trao đổi sản vật và hàng tiểu thủ công nghiệp sản xuất tại địa phương.

Theo Trịnh Hoài Đức thì: chợ Búng xây bằng gạch, rộng rãi. Mỗi buổi sáng, từ các ngả đường, người gồng gánh hoa quả đổ về chợ. Nhiều mặt hàng gốm sứ gia dụng của các lò xung quanh, bày bán ở chợ được khách hàng ưa thích. Các lò làm bún, bánh, mổ heo, nấu rượu … đua nhau mọc lên làm cho vùng chợ Búng thêm sầm uất.

Đến vùng đất mới, lưu dân người Việt vẫn giữ nguyên truyền thống thờ cúng ông bà, tổ tiên. Trên bàn thờ luôn trang trí cảnh sơn thuỷ để nhớ về bổn cảnh cũ. Ngoài ra, trên đường chinh phục thiên nhiên, bệnh tật, thiên tai đe dọa…, họ tin và mong được lực lượng siêu nhiên phù trợ nên đã sớm xây dựng đình, chùa và nhiều nhà lập bàn thờ thiên địa trước sân. Các cơ sở tín ngưỡng có: đình An Thạnh thờ thần Hoàng bổn xứ, nhớ ơn các bậc tiền liệt đã khai phá vùng đất này. Những ngôi chùa ở đây có hàng trăm năm tuổi như chùa Phước Tường (hiện trong chùa còn lưu giữ một đại hồng chung do hòa thượng Quang Khai đúc vào năm 1894 và một số tượng gỗ rất có giá trị); chùa Sắc Tứ Thiên Tông (1773) theo truyền thuyết khi Nguyễn Ánh bị nghĩa quân Tây Sơn truy đuổi đã lẩn tránh trong chùa, Thiền sư Gia Tiền và Gia Linh đã lập hương án thắp 3 nén hương cùng một lượt và cùng tắt cùng lúc, Nguyễn Ánh cho là linh nghiệm. Sau khi thoát nạn, lên ngôi (1802) ông đã sắc phong cho chùa là “Sắc Tứ Thiên Tông”; một ngôi chùa khá nổi tiếng nữa ở Búng là Chùa Lầu, được xây dựng vào tháng 8 năm 1933,…

Theo kỷ yếu giáo phận Phú Cường: giáo xứ Búng được phôi thai từ thời Vua Gia Long (1802 – 1819) do công của ông có tên là Bình (người Công giáo quê ở Quảng Bình) làm quan giữ chức Tri Châu. Sau khi về hưu ông cùng gia đình vào vùng đất phía Nam (Búng) sinh cơ lập nghiệp. Lúc này, Búng còn là vùng rừng và đầm lầy mênh mông, gia đình ông đã khai hoang và lập nên làng Hưng Định, ông chú ý đến việc thành lập một họ đạo. Nhưng mãi đến năm 1888, một dòng họ đạo được thành lập trên địa phận Búng có tên gọi là Giáo xứ Búng (nay thuộc xã Hưng Định). Hiện nay, Giáo xứ Búng có khoảng 5.000 giáo dân gốc Búng. Giáo xứ Búng có kiểu dáng kiến trúc gần giống như nhà thờ Đức Bà (Sài Gòn).

Cư dân vùng Búng xưa và An Thạnh ngày nay, cộng cư cùng phát triển giữa người Việt, Hoa, Khơme. Họ có tôn giáo khác nhau, tín ngưỡng khác nhau nhưng có cùng khát vọng hoà bình, đấu tranh bảo vệ thành quả lao động, bảo vệ quê hương, đất nước. Họ đã viết nên những trang sử hào hùng, từ thời khai phá vùng đất Búng rồi đến phong trào chống Pháp của Thủ Khoa Huân, Thiên địa hội, Hội kín Nguyến An Ninh đòi dân sinh dân chủ. Đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Búng – An Thạnh đã góp phần xứng đáng giành thắng lợi chung toàn dân tộc.

                                                                                                                       Hồ Minh Thiện (TTXTTMDL&PTCN)