Tỉnh Bình Dương (cũ) là một tỉnh nổi tiếng về các giá trị di sản văn hóa đặc biệt trong đó có các ngôi đình cổ. Từ đầu thế kỷ XVII, theo chân những dòng người di cư, một số nhóm dân miền Trung đã đến vùng đất Thủ Dầu Một - Bình Dương. Họ dừng chân ở những nơi hội tụ các điều kiện thuận lợi để định cư lâu dài, trong đó có vùng đất Lái Thiêu, nổi tiếng với tên gọi “Xứ Lái Thiêu”. Nơi đây có vị trí tiếp giáp với sông Sài Gòn, nhiều mương rạch, vùng bãi bồi phù sa, đất đai màu mỡ, rất tốt cho việc làm ăn, sinh sống nên sớm hình thành những điểm tụ cư đầu tiên. Từ đó, những cư dân người Việt mở rộng địa bàn cư trú quanh vùng, dần hình thành nên làng xóm ngày càng trù phú. Khi cuộc sống dần đi vào ổn định, những cư dân người Việt ở Bình Nhâm bắt đầu tạo dựng đình làng để cầu mong các vị thần linh che chở cho gia đình, dòng tộc và dân làng vượt qua khó khăn, tránh được thiên tai địch họa, thú dữ hoành hành, đem đến cuộc sống giàu sang. Ngôi đình cũng đồng thời cũng là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng chung cho cả cộng đồng và ngôi đình thường được đặt tên theo tên làng.
Đình Bình Nhâm có vị trí tọa lạc trên gò đồi, mặt tiền hướng về con rạch. Khuôn viên đình có một vài cây cổ thụ (dầu, me), tạo bóng mát cho sân đình, đồng thời đem đến cho ngôi đình nét đẹp cổ kính. Tên gọi Bình Nhâm được đặt theo tên đơn vị hành chính của thôn “Bình Nhâm”. Địa danh Bình Nhâm xuất hiện từ rất sớm, được ghi trong sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Tuy nhiên, trong các tài liệu cổ, địa danh này được viết là Bình Nhan. Sự thay đổi từ “Nhan” thành “Nhâm” có thể là do đọc trại âm, có người giải thích đọc “Nhan” là phạm húy, nên đọc thành “Nhâm”. Việc vì sao đọc trại thành “Nhâm” mà không thành các âm khác hoặc kỵ húy thì kỵ húy của ai thì cần được nghiên cứu thêm.
Đình Bình Nhâm là nơi thờ Thành hoàng làng cùng các bậc tiền hiền, hậu hiền đã có công khai hoang mở đất, quy tụ dân chúng, tạo lập làng xã. Đến nay, đình đã tồn tại hơn 170 năm, là nơi đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của người dân địa phương. Chưa ai biết rõ năm xây dựng ngôi đình. Tuy nhiên, dựa vào nguồn sử liệu sắc phong còn lưu lại thì vào năm 1853, đình Bình Nhâm đã được vua Tự Đức ban sắc phong. Điều đó chứng tỏ, ngôi đình này phải được xây dựng từ trước năm 1853.
Đình Bình Nhâm hội tụ các giá trị về lịch sử, kiến trúc, mỹ thuật tiêu biểu, thể hiện phong cách kiến trúc, đồ án trang trí dân gian truyền thống của người Việt kết hợp kiến trúc, đồ án trang trí truyền thống của người Hoa. Tổng thể kiến trúc ngôi đình theo kiểu “Nội tam ngoại quốc” mang tính độc đáo trong kiến trúc đình làng tại Bình Dương. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngôi đình vẫn toát lên vẻ đẹp cổ kính, bình dị. Toàn bộ mặt tiền chánh điện, Đông lang, Tây lang của ngôi đình được trang trí bằng các khối hình có khảm sành sứ, bên trong trang trí các bức bích họa (tranh tường). Từ những nguyên vật liệu của nghề làm gốm truyền thống ở địa phương, dưới bàn tay khéo léo, khối óc sáng tạo của con người đã tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có tính thẩm mỹ cao. Trải qua hơn một thế kỷ tồn tại, một số vị trí đã bị bong tróc nhưng các hình tượng khảm sành sứ vẫn bóng màu men, giữ được khuôn dáng ban đầu. Thông qua nét đẹp kiến trúc nghệ thuật của ngôi đình, còn thể hiện nét giao lưu văn hóa giữa hai cộng đồng Việt – Hoa cùng chung sống trên vùng đất Bình Nhâm.
Mặt tiền của chánh điện đình Bình Nhâm được thiết kế năm lối ra vào, dạng hình vòm. Đầu cột và các mặt cột có trang trí phù điêu xi măng, khung viền màu vàng. Hai cột chính giữa đắp nổi câu đối chữ Hán màu vàng trên nền đỏ, có nội dung:
Phiên âm:
Phúc ấm cảnh thổ dân an hưởng
Đức hữu đại địa quốc vĩnh trường
Tạm dịch:
Phước để khắp miền - dân an hưởng
Ơn ban mọi chốn - nước vững bền
Chánh điện đình Bình Nhâm được thiết kế theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”, tức gồm hai tầng mái (tầng mái trên, tầng mái dưới) và ba nếp nhà song song, tương ứng với tiền điện, trung điện, hậu điện thông với nhau qua máng xối. Chánh điện đình Bình Nhâm có 5 gian, trước đây được kết cấu hoàn toàn bằng gỗ, mái lợp ngói âm dương. Tuy nhiên, qua các lần tu bổ, tôn tạo, nhất là vào năm 1972 nên diện mạo của đình có nhiều thay đổi, kết cấu không đồng bộ. Mái của tiền điện lợp ngói âm dương, trung điện và hậu điện lợp ngói tây. Hình dáng cột ở tiền điện hình vuông; ở trung điện và hậu điện đều hình trụ tròn nhưng kích thước không đồng nhau. Cột ở trung điện sơn màu đỏ, hậu điện trang trí họa tiết hình rồng quấn quanh thân cột.
Bàn thờ Thần Thành hoàng được đặt ở vị trí trang trọng nhất trong chánh điện vì theo tín ngưỡng dân gian, thần Thành Hoàng bổn cảnh là “chủ nhân của ngôi đình”. Khám thờ Thần đình Bình Nhâm được làm hoàn toàn bằng gỗ, chạm trổ các họa tiết rồng, cúc, trĩ… rất tinh xảo và có tính mỹ thuật cao. Tất cả các hạng mục này đều được sơn son, thếp vàng, kẻ chỉ, viền khung. Ở giữa khám là linh vị của Thần và chiếc ngai thần, trên ngai có “mũ thần”. Linh vị được làm bằng gỗ, hình chữ nhật dáng chân quỳ, sơn son thiếp vàng, chạm khắc hình đầu rồng uy nghi, dọc hai bên linh vị chạm khắc hình long vân. Trên án thờ Thần đặt hộp gỗ đựng sắc phong.
Dưới đỉnh mái là tầng mái trên và tầng mái dưới, lợp ngói âm dương; đầu ngói hình tròn trang trí hoa văn với chủ đề hoa cúc; diềm mái lợp ngói lòng máng (còn gọi là ngói trích thủy, ngói yếm) hình dạng lá đề, tráng men xanh. Tầng mái trên bố trí 06 tượng lân hý cầu, trong đó có 04 tượng khảm sành sứ ở giữa và 02 tượng tráng men ở hai đầu (vị trí bờ chảy). Tầng mái dưới bố trí 04 tượng cá chép hóa rồng khảm sành sứ ở giữa, hai bên là tượng Ông Nhật và Bà Nguyệt tráng men. Trong đó, “tượng ông Nhật, bà Nguyệt của dòng gốm Quảng Đông kết hợp cẩn đắp sành sứ với đề tài rồng, phụng, sư tử hí cầu, cá chép hóa long,… theo phong cách kiến trúc vùng Phúc Kiến, Triều Châu. Tất cả tượng này được sắp xếp với khoảng cách đều nhau. Ở giữa hai tầng mái là phần dải cổ diêm được chia thành 5 đoạn ô, hộc tương ứng với 5 gian, trang trí các mảng phù điêu khảm sành sứ, đề tài về sinh hoạt dân gian (long hổ hội, nhà quan, nhà dân,…).
Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đình Bình Nhâm đã gắn bó và chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử của vùng đất và con người Bình Nhâm - một vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử. Hệ thống di vật gồm sắc phong, hoành phi, liễn đối,… được bảo lưu trong đình là nguồn sử liệu quan trọng liên quan đến lịch sử của đình cũng như vùng đất Lái Thiêu - Thuận An. Sắc phong đình Bình Nhâm được vua ban tặng vào đầu năm 1853, được xem là một trong số ít ngôi đình ở Bình Dương còn lưu giữ sắc phong nguyên bản. Hoành phi, liễn đối trong đình Bình Nhâm hàm chứa nội dung về những triết lý nhân sinh, thể hiện ước muốn cao đẹp về một vùng đất thanh bình, thịnh vượng, nhà nhà an yên, đồng thời cũng là thông điệp của các bậc tiền nhân truyền dạy đến hậu thế muôn đời. Trong liễn đối của đình còn được người xưa khéo léo cách điệu chữ Hán bằng hình ảnh chim én, vận dụng phép “quán thủ” hai chữ “Bình Nhâm” ở đầu mỗi vế đối, ngụ ý nhấn mạnh về địa danh hành chính và tên gọi ngôi đình.
Với các giá trị trên, ngày 18/1/2022, đình Bình Nhâm đã được UBND tỉnh Bình Dương (cũ) công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa Kiến trúc Nghệ thuật cấp tỉnh.