Nhà cổ ông Nguyễn Tri Quan – Một trong những ngôi nhà cổ còn khá nguyên vẹn kiến trúc ban đầu

Nhà cổ ông Nguyễn Tri Quan tọa lạc ở khu phố 1, phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

Bình Dương xưa thuộc trấn Phiên An, giữa hai huyện Bình Dương (Tân Bình) và Phước Long, dân cư trù mật, nhà ngói, phố chợ liền lạc, là xứ phồn hoa đô hội của đất Gia Định, cả nước không đâu sánh bằng. Ngày nay dấu ấn xứ phồn hoa đô hội ở Bình Dương vẫn còn được lưu giữ qua nhiều ngôi nhà cổ, một loại hình di tích văn hóa độc đáo của vùng đất này. Trong đó, nhà cổ Nguyễn Tri Quan tọa lạc ở khu phố I, phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Công trình xây dựng năm Canh Dần (1890), trên tổng diện tích 3.243m2.. Nhà do ông Nguyễn Văn Hội (cụ tổ ông Nguyễn Tri Quan) xây dựng.

 Ngôi nhà này còn lưu giữ một số tài liệu, hình ảnh có liên quan đến lịch sử văn hoá đáng chú ý:

 Trước hết là tờ sắc do Vua Tự Đức phong tên Thụy (tên sau khi mất) cho vị tiền bối của gia đình, có tên là Nguyễn Văn Hội – ông từng giữ chức là Thương biện tỉnh An Giang rồi thăng chức An Sát tỉnh Vĩnh Long, với Hàn lâm viện Thị giảng.ông Hội được phong Thụy là đoan thận và tờ sắc ghi: Tự Đức thập cửu niên, nguyệt sơ lục nhật (ngày 6 tháng 2 năm Tự Đức 19, tức vào năm 1866), lúc ấy chưa mất ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ.

 Thứ hai là chủ nhà còn giữ được chân dung Vua Thành Thái, vị vua yêu nước, lên ngôi năm 1869, đến năm 1907 bị Pháp bắt đi an trí ở Vũng Tàu, rồi đày sang đảo Reunion … chân dung này được thờ trang trọng ở gian giữa, trước bàn thờ gia tiên và bên trên có tấm hoàng phi ba chữ đại tự: Trung nghĩa đường, nơi lạc khoản ghi canh dần niên tạo tiết nguyệt nhất thành (làm xong ngày tháng tốt năm Canh Dần, 1890), tức là sau khi vua Thành Thái lên ngôi một năm. Chủ nhà không biết chân dung vua Thành Thái được thờ từ lúc nào, nhưng chắc là đã lâu, đôi lọng ở hai bên bàn thờ hiện ở tư thế xếp lại và chỉ còn trơ lại bộ sơn bằng tre.

 Điều có liên quan đến văn hoá tỉnh ta đó là nhà ông Quan là nơi hân hạnh được giữ sắc thần và cả nhà Long Đình dùng để rước sắc của đình Tân An (tức Tương An Miếu). Tương truyền tổ tiên ông Quan rất có công với ngôi đình, thuộc bậc tiền hiền hoặc hậu hiền của đình, ông từ hiện chăm lo đèn nhang cho đình cũng thuộc tộc họ này.

 Về thời điểm kiến tạo: hiện ngôi nhà có hai con số, một ở tấm hoành trung nghĩa đường như đã nói ở trên, còn một số nữa ghi ở bức thờ của bàn thờ gia tiên ở giữ nhà, ở đây ghi: Kỷ Tỵ niên, tức là năm 1929. Vậy có thể ngôi nhà này tạo dựng năm 1890 và tu bổ hay trùng tu năm Kỷ Tỵ 1929.

 Về kiểu kiến trúc, ngôi nhà này cũng có nét độc đáo đặc biệt đó là lối kiến trúc chữ khẩu (口)(gồm 4 căn với hướng đòn dông tạo thành hình vuông). Lối này ít nơi có, ngoại trừ những chùa, đền, vì người bình dân tin là làm nhà chữ khẩu sẽ không phát đạt được vì khẩu là miệng, miệng ăn hết của cải. Nhà chữ khẩu bao gồm bốn căn nhà mà hướng của cây đòn giông tạo thành hình chữ khẩu hoặc hình vuông, ở giữa bốn căn nhà ấy là khoản sân còn tường có đặt bể cạn, non bộ hoặc cây cảnh.

 Cụ thể ngôi nhà ông Quan gồm bốn căn: Nhà thờ, nhà khách nằm song song nhau như hai cạnh dài của hình chữ nhật, hướng nhà quay về Đông Nam cách nhau khoảng sân con. Nối nhà khách và nhà thờ là hai căn nhà ngang, tức hai cạnh ngắn của hình chữ nhật, sân con vừa đặt nơi non bộ, cây cảnh, đồng thời là nơi tạo sáng cho bốn căn nhà chung quanh. Bố cục và công dụng của bốn căn nhà như sau:

Đầu tiên là nhà thờ, căn nhà gồm ba gian hai chái. Gian giữa thờ gia tiên với hai bức thờ, đề hai chữ lớn tổ phái (dòng chính) hai bên là cặp câu đối:

Phước tại toàn bằng huệ trạch hồng đồ thừa phái viên

Ân lưu âm chất di truyền quảng nghiệp phụ tòng đường

Tạm dịch:

Phước nhà có được nhờ vào việc tiếp nối lâu dài ơn huệ và cơ nghiệp của người xưa để lại.

Ân đức là giữ lại phúc đức âm thầm truyền rộng nghiệp nhà cho con cháu để gánh vác việc tông đường.

Ở hậu tẩm, bức tường của bàn thờ bên phải, nhìn từ ngoài vào, đề báo bổn đôi câu đối hai bên ghi:

Cúc dục ân thân thiên hải trọng

Chưng thường lễ đáp lại ty kinh

Tạm dịch:

Bồng bế dưỡng nuôi, ân cha mẹ nặng như trời biển

Lễ cúng đáp đền cần xem nhẹ hạt tóc, sợi tơ.

Ở bàn thờ bên trái thì ghi hai chữ truy viễn với cặp đối:

Kính thành bất Giảm song thân nghĩa

Phúc lạp vô vong bán tử hình

Tạm dịch:

Kính thành không giảm nghĩa song thân

Từ hạ sang đông (quanh năm) không quên mối tình của con rể đối với cha mẹ

Bên trên cũng có trang thờ như các nhà khác, đặc biệt ở đây còn có sắc thần của Đình Tân An, sắc đựng trong một cái hộp gỗ, bên ngoài phủ vải đỏ, thường chủ nhà không cho ai mở ra xem, kiêng vì tục lễ. Ba tủ thờ đều chạm khắc rất công phu.

Tấm hoành giữa nhà đề “trung nghĩa đường” như đã nói, còn có bên trái đề “chủ trung tín” (lấy trung tín làm trọng), tấm bên phải đề “quang thế trạch” (ân huệ sáng đời).

Nơi nhà thờ này còn đến hai cặp đối thếp chữ vàng, cặp thứ nhất:

Một hữu bổn thủy hữu nguyên kế thuật gia phong huy hiếu

Đức nhuận thân phú nhuận ốc quang huy thế trạch trọng cương

Tạm dịch:

Cây có cội, nước có nguồn, nối tiếp đức nhà bằng đức hiếu.

Đức nhuận thấm ở thân, giàu hiện ra nơi nhà, tôn trọng cương thường làm rạng rỡ đời đời cho gia đình.

Cặp đối thứ hai:

Thanh phước duy hậu côn tôn đức tông công vạn đại phất thế

Hồng cơn triệu tiền nghiệp phụ truyền tử kế biến diệp bất thiên

Tạm dịch:

Phước đức trong sạch để lại cho cháu con, công đức tổ tiên muôn đời không đổi

Nền lớn nối nghiệp xưa, cha truyền con nối mãi không đổi dời.

 Phía trước bàn thờ chính, giữa là bàn thờ vong có đặt chân dung vua Thành Thái. Các vì kèo đều có chạm cẩn, trính uốn cong. Ơ hàng hiên với dãy lá dung cẩn xà cừ rất đặc trưng, cột ở hàng hiên là những trụ vuông, đầu cột đắp hoa văn nổi, nối với các cột vôi ấy là lan can con tiện, rồi với lối tầng cấp bước ra sân con.

 Song song và phía trước nhà thờ nguyên là căn nhà ba gian dùng làm nhà khách. Trên tường dọc theo hành lang trong, chủ nhân treo những khuôn hình toàn chân dung của những danh nhân hoặc vua chúa của một số nước trên thế giới (chủ yếu là các nước phương Tây), có lẽ những hình ảnh này có từ đời nội tổ của ông quan là cụ bang biện Nguyễn Văn Sanh. Căn nhà khách này cất sau căn nhà thờ nên có những nét kiến trúc mới như bên trên có tầng với sườn cây đắp vôi, còn hàng hiên trước là những cây ngạo vắt ngang trên đầu cột vách trong và đầu cột vôi của hàng hiên, nhờ vậy mái được nâng cao, không thấp như những nhà cổ khác trước hiên nhà khách cũng có lan can và hai lối tầng cấp bước xuống sân và có tường thấp muốn cong với các trụ vuông ở cuối thường để đặt chậu hoa kiểng.

Với lịch sử hình thành và phát triển vùng đất phương Nam thì ngôi nhà cổ ông Nguyễn Tri Quan ở  Bình Dương là một trong những di tích chứa đựng tư liệu lịch sử quan trọng đáng để nghiên cứu lịch sử đa dạng của kiến trúc cổ Bình Dương. Đặc biệt, ngôi nhà này mang phong cách mỹ thuật Gia Định, giàu tính biểu cảm, dân giã, bảo tồn được những công trình kiến trúc, chạm khắc có giá trị thẩm mỹ cao.

Khi được đắm mình trong không gian tĩnh lặng của những ngôi nhà cổ giữa khu vườn êm ả, tiếng ồn, khói bụi đường xa dường như không len lỏi vào đến nơi đây, cuộc sống xô bồ gấp gáp chốn thị thành dường như không hiện diện ở nơi đây…  Nhà cổ ông Nguyễn Tri Quan đựơc xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh ngày 02/6/2004 theo Quyết định số 3875/QĐ-UB.

                                                                                                                       Hồ Minh Thiện (TTXTTMDL&PTCN)