Di tích lịch sử nhà tù Phú Lợi – Điểm đến về nguồn và sinh hoạt Hè tại Bình Dương
Khu di tích lịch sử Nhà tù Phú Lợi hiện tọa lạc trên đường Một Tháng Mười Hai, phường Phú Lợi, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Khu di tích lịch sử Nhà tù Phú Lợi hiện tọa lạc trên đường Một Tháng Mười Hai, phường Phú Lợi, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Đây là một di tích lịch sử đã được xếp hạng cấp quốc gia theo Quyết định số 92/VH/QĐ ngày 10/7/1980.
Nhà tù Phú Lợi tồn tại trong suốt 7 năm (1957 – 1964), nơi đây đã trở thành một chứng tích tố cáo tội ác chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, đồng thời biểu dương tinh thần đấu tranh cách mạng kiên trung, bất khuất của những người cộng sản và người yêu nước đấu tranh cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Với chính sách “Bài phong, đả thực, diệt cộng”, ngày 01/11/1956, ngụy quyền Sài Gòn đã ra Dụ số 6 dựng lên hàng loạt nhà tù ở miền Nam để tự do vu cáo, giam cầm, bắt giết những ai được cho là cộng sản mà không cần điều tra, xét xử. Từ khu căn cứ của phát xít Nhật và thực dân Pháp, vào giữa năm 1957 chính quyền Mỹ - Diệm cải tạo nơi đây thành nhà tù Phú Lợi để giam giữ cán bộ, chiến sĩ và người yêu nước lúc bấy giờ, thuộc ấp Phú Mỹ, xã Phú Hòa, quận Châu Thành, tỉnh Thủ Dầu Một và được ngụy trang dưới tên gọi “Trung tâm huấn chính Phú Lợi”, sau đổi thành “Trung tâm Cải huấn Phú Lợi” và được bố trí xây dựng ngay bên khu căn cứ quân sự với tổng diện tích khoảng 12 ha, chia thành nhiều khu vực như: khu hành chánh, khu gia đình binh sĩ, khu An Trí Viện – gọi là khu “An trí viện” nhưng thực chất là trại giam.
Khu trại giam gồm có 3 trại: Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa. Cả 3 trại có 9 phòng giam được đánh dấu theo ký tự A, B, C, D, E, F, G, H và N. Các trại ngăn cách nhau bằng bức tường kẽm gai dày đặc, hai bên vách theo chiều dài của trại có khoét cửa sổ, gắn song sắt, nhưng không có cánh cửa. Trong phòng dài mênh mông chỉ có hai dãy sàn bằng xi măng dành cho hai dãy tù nằm gối đầu nhau. Mỗi trại chứa khoảng 300 đến 450 người tù, hoặc 500 người. Bao quanh ba khu trại là hai bức tường cao, có mấy lớp kẽm gai, hệ thống đèn điện chiếu sáng vào ban đêm, hoàn toàn cách biệt với bên ngoài. Ở giữa trại giam có lô cốt trung tâm để quan sát toàn khu trại. Xung quanh bốn góc có 4 lô cốt nhỏ. Có hai cổng chính: cổng thứ nhất mang bảng “Trung tâm cải huấn Phú Lợi”, cổng thứ hai mang bảng “An trí viện”.
Phú Lợi là nhà giam tù nhân từ các tỉnh khác đến. Đầu tiên là tỉnh Long An, rồi dần lan ra các nơi khác khắp miền Nam. Cho nên ban đầu là “nhà tù Phú Lợi”, về sau thành “trại tập trung Phú Lợi”. Số tù nhân chúng đưa về Phú Lợi đầu tiên có 4 nữ và khoảng 100 nam, đến cuối 1957 tăng lên 3.000 tù nhân. Đến cuối năm 1958, số tù nhân lên đến gần 6.000 người, trong đó có 1.000 tù nhân là nữ.
Chế độ khắc nghiệt của nhà tù Phú Lợi cũng không khác ở nhiều nhà tù khác lúc bấy giờ: ăn gạo mục cá ươn, muối hạt, nước mắm có dòi…. Sống bẩn thỉu, thiếu nước, nằm xà lim, chuồng cọp, lao động khổ sai bệnh tật không thuốc chữa trị. Những đòn điều tra đánh đập dã man, chúng đặt ra “24 điều cấm” rất khắc nghiệt để lấy cớ đánh đập tù nhân. Và những tên “chúa ngục” nổi tiếng gian ác như: Nguyễn Văn Bông, Trần Vĩnh Đắc, Hồ Văn Tần…
Với âm mưu giết hại tù nhân cả về thể xác lẫn tinh thần, Mỹ - Diệm luôn dùng chính sách hai mặt: đàn áp và mỵ dân, tức là vừa khủng bố, bắn giết tù nhân, vừa tỏ ra nhân đạo, tôn trọng các điều khoản của quy ước Genève khi các phái đoàn quốc tế đến thăm các trại giam hoặc khi các tù nhân kiên quyết đấu tranh. Các chế độ trong trại giam từ ăn ở, trang cấp đến hình thức kỷ luật đều phản ánh đầy đủ chính sách hai mặt của chính quyền Sài Gòn. Đây là điểm khác biệt được họ rút kinh nghiệm từ chế độ nhà giam của thực dân Pháp chỉ giam giữ tù chính trị không cho trốn thoát, mặc dù chế độ lao tù thời Pháp cũng tàn bạo không kém.
Thế nhưng những chính sách và biện pháp mà Mỹ - Diệm áp dụng không thể lung lạc ý chí sắt đá của những người tù yêu nước. Với tư tưởng “nơi hầm tối là nơi sáng nhất”, những người yêu nước không chỉ xem nhà tù Phú Lợi như một chiến trường mà còn là trường học cách mạng tiêu biểu. Chế độ lao tù của Mỹ - Diệm chỉ giam được phần thể xác, còn tâm hồn của người tù vẫn luôn hướng về Đảng, về cách mạng và kiên trì đấu tranh đánh đuổi đế quốc tay sai. Ở ngay trong chính sào huyệt của kẻ thù nhưng bên họ luôn có Đảng soi đường dẫn lối giúp họ vượt qua mọi chông gai, thử thách ở chốn lao tù. Chỉ trong một thời gian ngắn, các Đảng viên ở các trại đã tổ chức được đường dây liên lạc với nhau, các chi bộ bí mật lần lượt được thành lập. Đầu năm 1958, Đảng ủy Trung tâm Phú Lợi được thành lập, gồm có một số đồng chí: Vũ Duy Hanh (nguyên là bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một), Nguyễn Văn Trung,… và các chi bộ có các đồng chí: Nguyễn Thanh Liêm, Thiệt... Suốt những năm tháng ở đây, tù nhân có tổ chức bí mật của Đảng ta chỉ đạo. Ban Đại diện, Tổ Tâm giao hoặc Đôi bạn đồng hương ở từng trại giam làm nòng cốt, từng bước đấu tranh với kẻ thù.
Một sự kiện đã diễn ra vào những ngày cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1958. Vụ đầu độc tù nhân Phú Lợi: như thường lệ mỗi năm Mỹ - Diệm tổ chức 4 đợt đày tù nhân “loại A” ở các nhà tù trong đất liền ra Côn Đảo vào những tháng 3, 6, 9, 12 dương lịch. Trại giam Phú Lợi, sau khi phân loại có 450 tù nhân loại A – là đối tượng bị đày ra Côn Đảo vào cuối tháng 11/1958, với ý đồ bí mật thủ tiêu tù nhân chuyến đi này.
Theo kế hoạch mỗi tù nhân bị đày sẽ được nhận khẩu phần bánh mì (có trộn thuốc độc) và thức ăn kèm theo. Mọi việc đã chuẩn bị hoàn tất vào 28/11/1958, nhưng liên tiếp những ngày này biển động mạnh tàu không ra được vùng biển Vũng Tàu – Côn Đảo. Không tù bỏ giả tâm, Mỹ - Diệm thực hiện âm mưu hãm hại tù nhân Phú Lợi trong bối cảnh khác. Đó là ngày 30/11/1958, là ngày chủ nhật, trại giam vẫn thực hiện “ăn tươi” của tù nhân gồm bánh mì, cà ri thịt bò. Để đủ khẩu phần ăn ngoài số bánh mì cũ, chúng trộn lẫn bánh mì mới vào nhau và cấp phát cho tù nhân. Số tù nhân bị ngộ độc tăng nhanh đau bụng, nôn mửa, co quắp,… Đến ngày 01/12/1958, số tù nhân bị ngộ độc tăng lên hàng trăm người, nhiều người chết, số nằm hôn mê bất tỉnh,… số anh chị em tù nhân bệnh nặng bị địch khiêng khỏi trại, đến ngày 2/12 và 3/12 số bệnh nhân nặng và chết càng đông, số người chết bị vùi tại chỗ, số nặng chuyển đi, những tù nhân ấy không thấy được chuyển lại Phú Lợi nữa.
Nhưng với tinh thần kiên cường bất khuất, Đảng ủy trại giam quyết định đấu tranh công khai trực tiếp, các tù nhân Phú Lợi đã đoàn kết anh dũng đấu tranh như: tung nóc nhà giam, phát loa phóng thanh kêu cứu trong ngày bi thảm 01/12/1958. Nhanh như chớp, tin địch đầu độc tù nhân đã được lan truyền khắp nơi. Đầu tiên nhân xã Phú Hòa, Bình Chuẩn, Hiệp Thành, Phú Văn,… nổi dậy phối hợp với tù nhân ở Phú Lợi đấu tranh tố cáo tội ác của Mỹ – Diệm. Từ ngày 30/11 đến 02/12/1958, trong ba ngày nổ ra cao trào đấu tranh chống vụ đầu độc ở nhà tù Phú Lợi do Mỹ - Diệm gây nên hàng loạt tù nhân bị trúng độc. Song đối phương vẫn ngoan cố lẫn tránh trách nhiệm này với những lời lẽ vô lý nhưng chúng đã bị đuối lý trước những lời phản biện của các đại biểu tù nhân. Họ đặt ra vấn đề là hiện vẫn còn những mì cũ do nhà giam cấp phát cho tù nhân, nếu không tin hãy đem cho heo ăn thì rõ. Kết quả sau khi heo ăn liền bị trúng độc và chết tại chỗ. Để chạy tội Mỹ – Diệm tìm cách phi tang nhân chứng, gây nên làn sóng căm phẫn trong và ngoài nước. Chỉ sau 1 tháng vụ đầu độc ta nhận được liên tiếp nhiều bức điện của các tổ chức quốc tế: Liên hiệp Công đoàn thế giới, Hội Liên hiệp học sinh thế giới, Hội Luật gia thế giới… Biến đau thương thành hành động, khắp nơi trong cả nước dấy lên phong trào hướng về Phú Lợi, từ tiếng gọi căm thù, tiếng gọi đau thương...“Tuần lễ thi đua” vì Phú Lợi đau thương và miền Nam ruột thịt! của Ủy ban đấu tranh Trung ương chống vụ đầu độc ra đời; làm bừng lên một phong trào thi đua trên công xưởng, nông trường, hợp tác xã, thao trường, thông tin đại chúng và sáng tác văn nghệ... Sự căm phẫn đó đã được nhà thơ Tố Hữu thể hiện sâu sắc trong bài thơ “Thù muôn đời muôn kiếp không tan” (năm 1959):
“…Trong một ngày - mồng một tháng mười hai
Nào ai ngờ không có nữa ngày mai!
Chúng tôi chết, trong đêm dài tàn khốc
Đứt ruột đứt gan, nắm cơm thuốc độc
Tím xương da nanh nọc lũ đê hèn
Trái tim hồng chết uất máu bầm đen…”
Trong điều kiện mới của chiến tranh, đến năm 1964, nhà tù Phú Lợi không còn nữa. Từ đó, hệ thống trại giam chuyển thành tiểu khu quân sự Mỹ - ngụy cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 30/4/1975.
Với giá trị lịch sử to lớn và ý nghĩa chính trị quan trọng, đến nay khu di tích lịch sử nhà tù Phú Lợi đã được tỉnh Bình Dương đầu tư kinh phí thực hiện ba đợt trùng tu, tôn tạo vào các năm 1995, 2007, 2011.
Ngày nay, khu di tích lịch sử Nhà tù Phú Lợi đã trở thành một “địa chỉ đỏ” quen thuộc, nơi tổ chức các hoạt động nổi bật trong hành trình tham quan – về nguồn, hội trại truyền thống, giao lưu, kết nạp Đoàn…, đáp ứng nhu cầu tham quan, học tập, nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử cũng như góp phần giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.
Hồ Minh Thiện (P.XTDL)