Di tích lịch sử chiến khu Đ - Đất cuốc Bình Dương
Di tích lịch sử Chiến khu Đ tọa lạc tại xã Đất Cuốc, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Di tích lịch sử Chiến khu Đ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng cấp quốc gia theo Quyết định số 1631/QĐ-BVHTTDL ngày 11/5/2010, hiện tọa lạc tại xã Đất Cuốc, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước (1946 – 1975), Chiến khu Đ là một trong những chiến khu lớn và tồn tại lâu dài nhất trong lịch sử đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Với gần 30 năm hình thành, xây dựng và phát triển, chiến khu Đ đã đi vào lịch sử như một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nơi ghi dấu những chiến công oai hùng mãi niềm tự hào của quân và dân vùng đất “miền Đông gian lao mà anh dũng”.
Chiến khu Đ ra đời vào tháng cuối tháng 02 năm 1946. Khi thực dân Pháp chiếm đóng được quận lỵ Tân Uyên, tổng hành dinh Khu 7 và lực lượng vũ trang Biên Hòa rút sâu vào rừng, công tác xây dựng căn cứ được đặt ra một cách cấp thiết tại Hội nghị bất thường của Khu bộ Khu 7 họp tại Lạc An (thuộc tỉnh Biên Hòa, nay thuộc tỉnh Bình Dương), tiến hành cải tổ lại cơ quan khu bộ, thảo luận những biện pháp xây dựng địa bàn đứng chân, qui định các khu vực doanh trại, bố trí hệ thống phòng thủ chiến đấu nhằm ngăn chặn, tiêu diệt giặc và bảo vệ an toàn căn cứ. Sau hội nghị, công tác xây dựng căn cứ bắt đầu được triển khai tương đối có hệ thống. Các cơ quan, đơn vị, công xưởng… phân chia đóng từng khu vực. Mỗi khu vực mang một mật danh A, B, C, D. Theo đồng chí Võ Bá Nhạc nguyên chánh văn phòng Khu bộ Khu 7 thì: A là căn cứ giao thông liên lạc đóng ở Giáp Lạc, B là căn cứ hậu cần đóng ở Thường Lang, C là khu vực bộ đội thường trực đóng ở sở Ông Đội, Đ là tổng hành dinh Khu 7 đóng ở Ngãi Hoang.
Về tên gọi của chiến khu Đ, ban đầu “Đ” là mật danh chỉ Tổng hành dinh của Khu 7 nằm trong hệ thống các vị trí căn cứ của khu. Dần dần về sau, mật danh Đ được dùng để chỉ luôn cả vùng chiến khu rộng lớn ngày càng phát triển. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, Đ là chữ cái đầu viết tắt địa danh Đất Cuốc, nơi bộ đội Huỳnh Văn Nghệ khởi cứ điểm đầu tiên, tập hợp lực lượng, mở trại huấn luyện ngay trong ngày đầu kháng chiến.
Đ là chữ cái viết tắt từ chỉ tính chất cách mạng của chiến khu (chiến khu Đỏ, chiến khu Đảng) để phân biệt với căn cứ một số ít lực lượng vũ trang không cách mạng lúc bấy giờ.
Đ là chữ viết tắt của chiến khu Đồng Nai, chiến khu Miền Đông, chiến khu Đầu tiên...
Về phạm vi của Chiến khu Đ, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể có phạm vi rộng hẹp khác nhau.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Chiến khu Đ được hình thành khởi nguồn từ hạt nhân 5 xã: Tân Hòa, Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An (thuộc huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa), trong đó Lạc An là trung tâm. Từ năm 1948 trở đi, Chiến khu Đ được mở rộng ra, lấy đường 16 từ phía Tây và sông Đồng Nai từ phía Nam làm ranh giới để không ngừng mở mang lên phía Bắc tới Phước Hòa về phía Đông tới sông Bé; rồi vượt qua sông Bé phát triển mãi lên phía Bắc và Đông Bắc. Mặc dù vậy, phạm vi chủ yếu của chiến khu nằm trên vùng đất: Tây giáp đường 16, đoạn từ thị trấn Tân Uyên lên Cổng Xanh; Bắc giáp sông Bé, đoạn từ cầu Phước Hòa lên Chánh Hưng đến ngã ba Hiếu Liêm và Nam giáp sông Đồng Nai, đoạn từ ngã ba Hiếu Liêm về thị trấn Tân Uyên.
Sang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, do quy mô cuộc chiến tranh ở mức cao hơn, từ phạm vi chiến khu cũ (chủ yếu nằm trên địa bàn Tân Uyên), trung tâm chiến khu chuyển dần lên phía Đông Bắc. Đến đầu năm 1975, sau khi giải phóng Phước Long, các khu căn cứ được xây dựng hoàn chỉnh, phạm vi phát triển đến mức cao nhất. Toàn bộ Chiến khu Đ nằm ở phía Bắc sông Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Bình Dương và cắt qua địa phận hai tỉnh Phước Long, Bình Long (nay là Bình Phước), phía Bắc vươn xa giáp biên giới Việt Nam - Campuchia (đoạn từ Bù Đốp đến Bù Đăng), phía Đông giáp các tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng.
Với những đặc điểm tự nhiên thuận lợi, Chiến khu Đ nằm trong hệ thống rừng núi, địa hình hiểm trở, lưng dựa vào dãy Trường Sơn và rừng núi miền Nam Đông Dương, gắn với một phần đoạn cuối đường Hồ Chí Minh; nằm trên triền đất thoai thoải từ chân cao nguyên miền Trung chạy về phía Nam và biên giới Campuchia, xuống giáp cận thành phố Sài Gòn và những đô thị lớn thuộc tỉnh Biên Hòa (nay là Đồng Nai), Thủ Dầu Một (nay là Bình Dương). Chiến khu Đ là địa bàn lý tưởng cho việc xây dựng căn cứ làm nơi trú dấu lực lượng, kho tàng dự trữ vũ khí, lương thực và phát triển mọi mặt của vùng căn cứ kháng chiến. Chiến khu Đ còn là vùng án ngữ chiến lược, nối nhiều chiến trường với nhau, là cầu nối “trung chuyển” quan trọng từ hậu phương lớn miền Bắc vào Nam Bộ; vừa có ưu thế của một bàn “bàn đạp” tấn công vào các mục tiêu chính trị, quân sự, kinh tế của địch ở Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam bộ. Mặc dù có những bất lợi như: thời tiết khắc nghiệt, thú dữ, rắn rết, sên, vắt, muỗi mòng, đất rộng nhưng diện tích trồng lúa không đáng kể, dân cư thưa thớt, mùa mưa đường đi trong chiến khu gặp nhiều khó khăn, nhưng Chiến khu Đ vẫn tồn tại và biến thành “Việt Bắc miền Nam, mồ mã giặc Pháp” và cả giặc Mỹ sau đó.
Trên một phương diện khác, với tầm vóc của mình, Chiến khu Đ được coi như một trung tâm kháng chiến, là nơi ra đời của các lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ đã lập nên những chiến công vang dội. Trong giai đoạn chống thực dân Pháp, Chiến khu Đ là một trong những căn cứ quan trọng của các cấp ủy Đảng, các tổ chức chính quyền và cơ quan chỉ huy quân sự thuộc nhiều huyện, tỉnh lân cận đến khu 7, phân Liên khu Miền Đông và Nam Bộ. Trong đó thường xuyên nhất là tỉnh Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Khu 7. Đây cũng là nơi xây dựng các đơn vị vũ trang tập trung các cấp từ phân đội nhỏ lẻ buổi đầu kháng chiến đến Chi đội (1,10) Trung đoàn (301,310), Liên trung đoàn (301-310), Tiểu đoàn chủ lực 303, Tiểu đoàn vận tải 320… Trong kháng chiến chống Mỹ, địa bàn Chiến khu Đ là nôi xây dựng, đứng chân của các cơ quan lãnh đạo của Đảng, của các lực lượng vũ trang từ huyện, tỉnh, liên tỉnh, quân khu đến Trung ương Cục. Từ đây đã ra đời những đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của Miền Đông và của các Xứ Ủy như : C50, C9, C80, C59, C200, C250, tập trung thành Tiểu đoàn 800, Tiểu đoàn 500, Trung đoàn Đồng Nai. Đây cũng là nơi thành lập và đứng chân tác chiến của lực lượng chủ lực Miền như Trung đoàn 762, Sư đoàn 9, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7. Và trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 là nơi tập kết của lực lượng Quân đoàn 1, Quân đoàn 4 trước khi tiến về giải phóng Sài Gòn.
Chiến khu Đ là một trong những hậu phương trực tiếp, tại chỗ của chiến trường Nam Bộ và Khu 6, là đầu mối giao thông chiến lược từ Trung ương vào Nam Bộ, là nơi tiếp nhận, cất giữ, chuyển phát cơ sở vật chất, cung cấp một phần nhân vật lực cho cuộc kháng chiến. Ngoài ra, Chiến khu Đ còn là nơi thử nghiệm những cách đánh địch táo bạo, thông minh của quân và dân miền Đông Nam bộ. Tiêu biểu như lối đánh đặc công, khởi đầu là trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên ở Tân Uyên ngày 19/3/1948, để từ đó hình thành bộ đội đặc công, phát triển kỹ thuật đánh đặc công ra cả nước; đồng thời là nơi xuất kích những trận đánh địch của quân và dân ta: Trận Bảo Chánh (5/1947), trận đánh Trảng Táo (tháng 6/1947), Bảo Chánh 2 (tháng 6/1947), trận Bàu Cá (7/1947), trận Đồng Xoài (12/1947), La Ngà (3/1948), trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên (3/1948), trận đánh chiến thắng Tua Hai (Tây Ninh) (1/1960), trận tiến công diệt tiểu khu Phước Thành (9/1961), trận tập kích bằng pháo vào sân bay Biên Hòa (10/1964) mở đầu cho hàng loạt trận đánh bằng pháo binh, là nơi xuất phát chiến dịch giải phóng tỉnh lỵ Phước Long (1/1975), nơi xuất phát chiến dịch 12 ngày đêm (từ ngày 9 đến 21/4/1975) giải phóng thị xã Long Khánh, đập tan cánh cửa thép Xuân Lộc, tuyến phòng ngự cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn, mở đường cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến khu Đ cũng là nơi gắn liền với những gian nan, thử thách của quân và dân ta. Đó là thiên tai (đặc biệt là trận bão lũ lụt lịch sử Nhâm Thìn năm 1952), dịch bệnh, thú dữ, hạn hán, đói kém, chiến tranh, bom đạn ác liệt của kẻ thù, những trận càn quét của kẻ thù mà điển hình là trận Tân Tịch (1/1947), các cuộc hành quân “Hòn đá lăn” và “Thành phố bạc” (năm 1966)... Tên gọi “chiến khu đói” hay “chiến khu đau” cũng xuất phát từ đây.
Trong những hoàn cảnh khó khăn, ác liệt ấy, các cơ quan Trung ương và địa phương tại Chiến khu Đ chỉ đạo các lực lượng kiên quyết giữ vững căn cứ, bảo vệ mùa màng, bảo vệ dự trữ kháng chiến; đồng thời ra sức phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất mọi mặt... Bên cạnh việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng và sản xuất, quân và dân Chiến khu Đ đánh bại tất cả các cuộc càn quét, đánh chiếm của kẻ thù vào chiến khu, nơi đây trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng của kẻ thù xâm lược “Chiến khu Đ còn, Sài Gòn mất”.
Với ý nghĩa lưu giữ những dấu tích gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của Chiến khu Đ, đồng thời ghi dấu những chiến công oai hùng của vùng đất và con người nơi đây, khu tưởng niệm Chiến khu Đ được tỉnh Bình Dương đầu tư xây dựng bên cạnh khu vực hồ Đá Bàn với tổng diện tích hơn 39,7 ha; gồm có 6 chức năng: khu trung tâm; khu trưng bày ngoài trời; khu du lịch nghỉ dưỡng; khu vui chơi giải trí, thể dục, thể thao; khu cây xanh cảnh quan; đất giao thông, bãi xe. Nơi đây sẽ trở thành một điểm tham quan về nguồn lý tưởng của du khách trong và ngoài tỉnh.